Chúng ta hay nghe nhiều chữ “tín” trong kinh doanh. Cha mẹ, ông
bà ta thường bảo về “luân thường đạo lý”. Vậy cái ông bà ta nói
nó bắt nguồn từ đâu? Nó đúng hay sai dưới quan điểm của khoa học ngày nay?
Luân thường đạo lý là cụm từ được gộp lại từ 2 khái niệm của
Nho giáo “Ngũ luân” (5 quan hệ cơ bản trong xã hội: vua-bề tôi, cha-con, vợ-chồng,
anh-em và bạn bè) và “Ngũ thường” (5 yêu cầu mà một người phải có: Nhân, Nghĩa,
Lễ, Trí, Tín. Theo các nhà nghiên cứu về Nho giáo, tư tưởng nho giáo có một
vài điểm sáng và điểm tối, thậm chí được xem như một tội ác của nhân loại.
1.
Nó bắt đầu khi nào?
Quay về với lịch sử của nơi nó bắt nguồn, lịch sử Trung Hoa
và thời kỳ Tam Đại từ XXI TCN đến III TCN gồm ba triều đại Hạ - Ân – Chu. Trong
đó nhà Tây Chu (Tây chỉ nơi đóng đô) là giai đoạn cực thịnh diễn ra vào năm
1006 TCN – 771 TCN. Đây là giai đoạn cực thịnh đến nỗi được mô tả "đêm
ngủ không cần then cài". Tuy nhiên, chính trong lòng cái xã hội hưng thịnh ấy xuất
hiện sự suy thoái đến từ nội bộ triều đình: quan chức thi nhau chạy tiền và quyền.
Và điều gì đến cũng sẽ đến, loạn lạc xảy ra, vua chúa phải chạy về phía Đông và
giai đoạn Đông Chu hình thành từ đó (770 TCN – 256 TCN). Đây là giai đoạn xảy
ra chiến tranh, loạn lạc liên miên. Một câu hỏi được đặt ra: làm sao mà một xã
hội có thể từ bình thành loạn và làm sao để từ loạn quay lại thái bình? Lúc này,
nhiều học thuyết thi nhau ra đời tạo nên hiện tượng “bách gia chư tử” (nghĩa: đâu
đâu cũng có học thuyết, thầy trò). Xã hội Trung Quốc bấy giờ chia làm 6 trường
phái lớn, gọi là lục gia, gồm:
1.
Nho gia
2.
Mặc gia
3.
Đạo gia
4.
Danh gia
5.
Âm – Dương gia
6.
Pháp gia
Trong các trường phái đó, Nho giáo được xem là có sức ảnh hưởng
lớn nhất đến Châu Á. Nho giáo rất có ảnh hưởng tại ở các nước Đông Á là Trung
Quốc, Đài Loan, Nhật Bản, Triều Tiên, Hàn Quốc và Việt Nam.
2.
Vậy Nho giáo là gì?
Một trong những xương sống trong hệ tư tưởng của Nho giáo là
thuyết chính danh. Thuyết này về cơ bản bàn về hai chữ “được” và “phải” để giải
quyết vấn đề bình-loạn trên. Theo đó, sở dĩ xã hội từ bình thành loạn là do con
người sống không chính danh. Vậy danh là gì? Danh là tên, chức của mỗi người
trong từng mối quan hệ nhất định. Mỗi danh này đều có hai chữ “được” và “phải”.
1.
“Được” làm những gì chức danh ấy cho phép.
2.
“Phải” làm những gì danh ấy yêu cầu
Ví dụ như chức danh “giám đốc” cũng có hai chữ
“được” và “phải”.
+ Được hưởng lương, được quản lý chi tiêu, nhân sự, được ngồi
phòng riêng dành cho giám đốc,..
+ Phải đảm bảo lợi nhuận quý 1/2020 tăng 10%, năng lực chuyên
môn/quản lý giỏi, đạo đức tốt chẳng hạn.
Xã hội muốn từ bình thành loạn thì phải sống chính danh. Sống
chính danh là phải thực hiện được hai chữ trên, nếu không phải chuyển sang một
chức danh khác tương xứng với khả năng/điều kiện của mình (ví dụ do năng lực lãnh
đạo không đủ thì chuyển sang chức danh thấp hơn là quản lý chuyên môn chẳng hạn).
Nếu không, cứ cố chấp bám lấy chức danh ấy sẽ xảy ra hiện tượng “loạn danh”. Chính
vì thế, thuyết chính danh khi xưa được sử dụng rộng rãi trong các triều đại
phong kiến Việt Nam để tuyển chọn người tài.
3.
Một số mảng tốt/xấu nổi bật trong tư tưởng
Nho giáo?
3.1. Tốt:
3.1.1.
Chữ Nhân: Nho giáo bàn về chữ Nhân
trong ngũ thường như sau:
“Kỷ sở bất dục vật thi ư nhân
Kỷ sở dục lập nhi lập nhân
Kỷ sở dục đạt nhi đạt nhân”
Cái gì mình không thích thì đừng làm cho người khác, hay nói
khác hơn, mình muốn gì thì cho người khác cái đó. Bạn muốn giỏi hơn, hãy chia sẻ
kiến thức cho người khác.
3.1.2.
Chữ Nghĩa: Tự mình kiềm chế mình để
thực hiện những cái danh của mình đòi hỏi một cách tự giác. Theo đó, Nho giáo
chỉ ra 5 điều:
-
Giàu có không dâm ô
-
Nghèo không trộm cướp
-
Không khuất phục trước sức mạnh của kẻ khác
-
Phải giữ ân tình
3.2. Xấu:
Trong lịch sử Trung Quốc, phụ nữ đóng vài
trò rất lớn bởi chỉ cần một người phụ nữ có thể khiến “nghiêng nước nghiêng thành”,
một cuộc chiến tranh chuyển sang hòa bình. Tuy nhiên vai trò của người phụ nữ
trong xã hội Trung Quốc bị rẻ mạt bởi tư tưởng trọng nam khinh nữ. Chính vì thế
hiện nay tỷ lệ chênh lệch giới tính xảy ra ở tỷ lệ cao ở Trung Quốc và cả Việt
Nam. Điều này được thể hiện rõ nét khi bàn về chữ tam tòng của phụ nữ. Theo đó
sự tự do của người phụ nữ bị gói trong ba mối quan hệ với cha, chồng và con.
Một điều khác cũng bất hợp lý khi bàn về nội
hàm của chữ “hiếu”. Hiếu là phải cha mẹ đặt đâu con ngồi đấy hay phải “nối dõi
tông đường” mới là “hiếu”. Điều này rõ ràng xâm phạm quyền con người và chưa hẳn
là đúng vì nếu xét kỹ, không một ai trên thế giới này rõ một đứa con thích gì,
làm gì hơn chính bản thân nó. Khi trưởng thành, chỉ chính nó mới nó biết phải làm
gì để đạt được hạnh phúc.